Hò là một trong những nét văn hóa Nam Bộ đáng chú ý vì nó mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Hò Nam Bộ đa dạng về thể loại và tiết tấu, ấn tượng khó quên. Nếu ai đã từng xem những bộ phim với giọng hò cao vút, sẽ thấy nhớ lắm những hình ảnh cô gái chèo đò cất cao giọng hò trong trẻo. Đó là nét đẹp văn hóa Nam Bộ mà chẳng ai có thể làm ngơ.
Nói về hò Nam Bộ thật hết sức đa dạng. Có nhiều loại hò khác nhau, thể loại đa dạng và tiết tấu cũng hết sức nhịp nhàng. Những câu hò đi sâu vào trái tim, chạm tới nơi sâu thẳm nhất. Đó là cảm xúc mà khiến ai cũng phải xốn xang. Hò Nam Bộ còn nhiều hơn thế với những nét đẹp văn hóa khó phai trong lòng người dân xa xứ.
Mục lục
Đôi nét về hò Nam Bộ
Hò là một thể loại diễn xướng trong đời sống người Việt Nam từ thời xa xưa. Nó khởi nguồn từ tập quán sinh hoạt vùng chiêm trũng. Câu hò diễn tả tâm trạng của người lao động. Hò và Lý tuy có phần giống nhau. Nhưng Hò thường gắn liền với một động tác khi làm việc. Lý thì không như vậy. (Giáo sư Trần Văn Khê. Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt nam. Tp HCM: nxb Trẻ, 2004. tr 81).
Điệu hò giao duyên
Trong sinh hoạt cộng đồng, thường thì một người hò đại diện cho một nhóm cho cùng một việc hay một mình tự thuật, kể lể. Điệu hò giao duyên giữ hai bên đối đáp với nhau. Người con gái hay người con trai trong nhóm hai phía sẽ hò đáp trả lại ngay khi đó. Trên vùng sông nước khi đi ghe hay đò, người hò thường hò điệu giao duyên giữa hai chiếc ghe, đò gần nhau.
Lùi vào quá khứ, ba trăm năm trước, khoảng cuối thế kỷ 17, người Việt đặt chân xuống đồng bằng Cửu Long. Họ khai sơn phá thạch để lập nghiệp. Đó cũng là lúc họ phát huy bản lĩnh, khí phách của dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến lâu đời. Trước khi gieo hạt giống làm nảy nở mùa màng, họ đã gieo tục ngữ ca dao, tiếng hò, điệu hát.
Thức ăn tinh thần cho người dân
Có thể nói thức ăn tinh thần chính của dân Nam Bộ trong buổi đầu là tiếng hò câu hát. Những điệu hò cấy lúa, hò quốc sự, hò lờ, đã làm thổn thức, xao xuyến lòng người từ xưa đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai. Những cuộc hò làm bớt nặng nhọc trong lúc cày bừa, sạ tỉa giữa nơi nước mặn, đồng chua, làm phấn khởi tinh thần trước cảnh thiên nhiên, đồng thời là đầu mối cho duyên tình trai gái dẫn tới những cuộc vuông tròn vàng đá trăm năm.
Các loại hò Nam Bộ bạn cần lưu ý rõ
Miền Nam có những điệu hò đặc sắc mang âm điệu luyến láy đặc thù của từng vùng thường làm rung động lòng người. Ví dụ như: Hò Miền Tây, Hò Đồng Tháp, Hò Đối, Hò Đố, Hò Cần Thơ, Hò Giọng Đồng, Hò Bản Đờn, Hò Cảnh Chùa, Hò Huê Tình, Hò Bắt Xác, Hò Ngạnh Trê, vân vân…
Trong các điệu hò, Dân ca Miền Nam còn có một điệu hò rất cổ, rất độc đáo. Đó là Hò Cấy Lúa (ngày nay được gọi tắt là Hò Cấy). Điệu hò này thường được các nam nữ hò giao duyên với nhau. Nó được thực hiện trong lúc họ cấy lúa vào những mùa cấy.
Quy luật khi hò
Độc đáo nhất điệu Hò Cấy Lúa còn cho phép người hò tự do sáng tạo tùy theo trường hợp, bối cảnh. Mỗi khi đối đáp trong khi nếu thích – hai bên còn có thể đề nghị và đồng ý với nhau hai thể loại có qui luật trước khi hò.
(1) Hò Bắt Xác. (2) Hò Ngạnh Trê.
Hò Bắt Xác có qui luật một bên đối và một bên đáp. Nếu như bên nào không đối hoặc đáp được thì sẽ bị người thắng cuộc rượt đuổi bắt cho bằng được mới thôi. Sau đó sẽ kết nghĩa thành vợ chồng với nhau. Lẽ dĩ nhiên là cuộc kết nghĩa này phải có sự đồng thuận của hai bên cha mẹ trong gia đình.
Hò Ngạnh Trê thì có qui luật hai bên hò đối đáp chọc ghẹo móc ngoéo lẫn nhau. Hát như vậy cho đến khi một bên bị bí không thể đối đáp được nữa phải chịu thua và không được hờn giận.
“Hò Cấy là điệu hò mái ngắn (còn gọi là mái đoản, mái cụt) thường diễn ra ngay trên đồng ruộng. Nó có thể kéo dài từ sáng cho đến chiều tối. Các nhóm hò, có kẻ xướng người xô, vừa lao động, vừa trổ tài đối đáp.
Một số câu hò Nam Bộ
“Xưa kia, mỗi vạn cấy thường tập trung từ 20 đến 30 người, đứng đầu là một “trùm vạn” – người trung gian giữa chủ ruộng và thợ cấy. Những thợ cấy hò giỏi thường được mọi người trọng vọng, công xá bao giờ cũng được nhận phần cao hơn so với các người khác trong vạn.
“Hò Cấy Miền Tây Nam Bộ trước đây diễn khắp các tỉnh, nhất là ở miệt ruộng của huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Thạnh Phú, Mỏ Cày, Bình Đại, Giồng Lãnh, Trại Cá, Bình n…. Nay Hò Cấy có thể coi là điệu hò cổ nhất hiện còn được gìn giữ ở Tiền Giang.
“Hò Cấy Gò Công được chia thành 3 loại: Hò Đối Đáp, Hò Đậu, Hò Hội (phải có đông người tham dự hơn). Về âm điệu, tiết tấu và tiếng hò (hay vế xô) sau mỗi nhịp trong Hò Cấy Gò Công là ‘hò… hò… ơ… ơ…’ ”. (Tình Mặc. Sau Những Bài Hò Cấy Gò Công. Hội Thân Hữu Gò Công – Hoa Thịnh Đốn – USA)
Tác phẩm Hò Lơ
Trong ca khúc Hò Lơ của nhạc sĩ Phạm Duy ông đã dùng phần xướng của bài Hò Cấy Lúa để mở đầu ca khúc Hò Lơ của ông. Hiện nay mình không tìm được một video clip nào có phần diễn xướng nguyên thủy cho bài hò độc đáo này.
Lùi vào quá khứ, ba trăm năm trước, khoảng cuối thế kỷ 17, khi người Việt đặt chân xuống đồng bằng Cửu Long khai sơn phá thạch để lập nghiệp cũng là lúc họ phát huy bản lĩnh, khí phách của dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hiến lâu đời. Trước khi gieo hạt giống làm nảy nở mùa màng, họ đã gieo tục ngữ ca dao, tiếng hò, điệu hát.
Có thể nói thức ăn tinh thần chính của dân Nam Bộ trong buổi đầu là tiếng hò câu hát. Những điệu hò cấy lúa, hò quốc sự, hò lờ, đã làm thổn thức, xao xuyến lòng người. Nó vẫn vậy từ xưa đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai. Những cuộc hò làm bớt nặng nhọc trong lúc cày bừa, sạ tỉa giữa nơi nước mặn, đồng chua. Những câu hò làm phấn khởi tinh thần trước cảnh thiên nhiên. Đây cũng là đầu mối cho duyên tình trai gái dẫn tới những cuộc vuông tròn vàng đá trăm năm.
Tiết điệu và âm điệu trong những câu hò Nam Bộ
Tiết điệu trong câu hò biến đổi khá nhiều. Nhưng có thể gom trong hai điệu chính. Hò huê tình, tức là hát chậm và kéo dài ra. Hò lăn, tức tiếng hát mau và ngắn lại. Dù hò huê tình, hò lăn hay hàng chục điệu hò khác biệt của mỗi địa phương Sa Đéc, Tháp Mười, Gò Công, Rạch Giá, Hà Tiên, Cai Lậy, Tiền Giang… người mộ điệu hò bao giờ cũng sành cung đoạn, âm giai. Họ không bao giờ chịu hạn chế lời ca trong một điệu. Họ tuỳ hứng mà sáng tác, tuỳ nội dung mà định hình thức của nốt nhạc. Nhưng luôn luôn, họ có cung đoạn riêng để quyết định cho sự hô ứng, cho lúc nghỉ ngừng.
Nếu chúng ta là những người chưa sành điệu, tất sẽ lạ lùng qua cách xưng hô “bạn ơi”, “mình ơi” quá tự do đến mức “sỗ sàng”. Còn những tiếng khác nữa như: “Này bậu ơi”, “Này người nghĩa ơi”, “hai đứa ta”, “đôi ta”… được xưng hô một cách thân mật tự nhiên. Người ta không bắt lỗi nhau và coi như cuộc trao đổi tâm tình chân chính…
Hò Đồng Tháp gây nhớ nhung da diết
Sông Cửu Long quanh năm chở nặng phù sa cho bãi bồi bến lở. Đây là nơi có Đồng Tháp Mười thẳng cánh cò bay với nửa mùa nắng cháy, nửa mùa nước dâng. Chính nơi đây đã sản sinh ra một điệu hò kỳ diệu Nó len lỏi và sống mãi trong tâm hồn mọi người. Đó là tâm hồn chứa đựng những hoài niệm, những ký ức, những ước mơ cháy bỏng. Đêm Tháp Mười thanh vắng nghe một giọng hò lảnh lót ngân vang và hòa tan vào khoảng không gian cao vời vợi nghe mà nhớ, mà đau thắt lòng.
Hò Đồng Tháp ra đời đầu thế kỷ XIX. Nó giao thoa từ nhiều dòng văn hóa của người bản địa (các dân tộc Kinh, Chăm, Khmer, Hoa) lúc bấy giờ. Phát triển cực thịnh, trở thành điệu hò nổi tiếng nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long vào nửa đầu thế kỷ XX .
Có nghệ nhân tâm sự: “Nếu xưa kia người nào mời hò thì ngay lập tức được đáp lại với câu hò: Hò Đồng Tháp là một loại hò trên đồng nước. Âm điệu của hò Đồng Tháp thể hiện rỏ tâm tư tình cảm của con người; nhất là vào các mùa trăng nước mênh mông thơ mộng. Đây là một âm điệu đặc biệt được hò ở tốc độ chậm, buông lơi. Khi hò, nhịp điệu lúc nhặt, lúc khoan, lúc trầm, lúc bổng, có lúc thì thật thấp, có lúc thì thật cao chót vót. Nó có sức lôi cuốn, hấp dẫn mọi người một cách kỳ lạ.
Một số câu hò Đồng Tháp
“Câu hò tôi đựng một nia
Chị em nào thích tôi chia cho hò…
Còn ngày nay nhiều nghệ nhân tuổi cao sức yếu, không thể hò được nữa mà chỉ còn có câu:
Câu hò tôi đựng một khạp da bò,
Tôi quên đậy nắp nó bò hết trơn.
Hò Đồng Tháp được chuyển thơ thành lời để đưa hơi, lấy đà, ngắt nhịp, ngân, thường chen vào từ ơ.
Lời hò Đồng Tháp đều xuất phát từ thơ lục bát, song thất lục bát hoặc từ ca dao tục ngữ.
Ơ à. Ngó lên trời thì trời trong mây trắng
Dòm xuống nước thì nước trắng lại trong
Nhỏ như ai chứ nhỏ nhỏ như em đây mà chắc dạ ơ à
Bền lòng ơ à
Ơ à… Lỡ duyên thời em chịu lỡ chớ đóng cửa loan phòng ờ ơ à… Em chờ anh, ơ à”
Hò Đồng Tháp có những đặc trưng riêng mà không điệu hò nào ở Nam bộ có được. Mỗi bài hò thường chia 3 phần hơi khá rõ: từ tầm trung đến thấp nhất, từ tầm cao đến tầm trung, tầm thấp nhất đến tầm cao… nối với nhau chặt chẽ. Đặc trưng nhất đó là hò tâm tình, là tự sự của con người về tình duyên, về số phận. Các điệu hò về những buồn vui cuộc đời. Cũng có khi có bài hò để… phê phán, lên án những cái ác, cái xấu. Phản ánh mọi mặt của đời sống nên nội dung của Hò Đồng Tháp vô cùng phong phú.
Phân loại hò Đồng Tháp
Hò Đồng Tháp có 3 thể loại: Hò cấy, Hò huê tình, Hò khoan. Từ một đứa trẻ lên 5 cho đến một cụ già 70 – 80 tuổi đều có thể hát lý, hò… Cái hay của nó là gắn với công việc hàng ngày của người dân, họ có thể vừa đi cấy, đi cày vừa hát, hay những đêm trăng, trẻ em vui chơi ở sân đình làng cũng đem điệu lý ra hát với nhau.
Đồng Tháp là vùng đất sen hồng thơ mộng và lãng tử. Đất và người Đồng Tháp chân chất, mạnh mẽ, khẳng khái nhưng thuần khiết như hồn sen. Với điều kiện tự nhiên là một miền quê sông nước và bề dày lịch sử văn hóa rất đỗi nhân văn. Nơi đây đã sản sinh ra hàng trăm điệu lý câu hò sâu lắng, mênh mang thấm đậm tình đất, tình người. Đặc biệt giá trị văn hóa phi vật thể trong vùng đó là điệu Hò Đồng Tháp nổi tiếng vang bóng một thời trên diễn đàn nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
Hò Đồng Tháp đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân. Nó góp phần làm cho phong trào văn nghệ quần chúng trong tỉnh phát triển mạnh mẽ và đều khắp. Nó cũng phục vụ có hiệu quả nhu cầu hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hóa- văn nghệ của nhân dân. Hò Đồng Tháp vẫn khẳng định giá trị là loại hình di sản văn hóa phi vật thể. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt văn hóa của người dân Nam bộ nói chung. Điệu hò này cũng ảnh hưởng đến người Đồng Tháp nói riêng.
Hò Chèo Ghe Bạc Liêu là điệu dân ca diễn xướng
Hò chèo ghe Bạc Liêu là một làn điệu dân ca mang hình thức diễn xướng của cư dân Bạc Liêu. Nó hình thành trong môi trường chèo xuồng, ghe trên sông nước có từ thời khẩn.
Hò Bạc Liêu được yêu mến bởi người dân
Trong dân ca Bạc Liêu thì hò Bạc Liêu (chủ yếu là hò chèo ghe) chiếm vị trí rất quan trọng trong kho tàng văn học dân gian của vùng đất trẻ này. Tiếp xúc với những nghệ nhân cao tuổi hoặc tham khảo nhiều tư liệu về hò, sẽ thấy rằng giọng hò Bạc Liêu xuất hiện gần như cùng lúc với giọng hò Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh, hò sông Hậu…. Nó có xuất xứ cùng gắn liền với quá trình phiêu bạt ngược xuôi trong hệ thống sông ngòi chằng chịt vùng Đồng bằng sông nước Cửu Long.
Câu hò là chỗ dựa tinh thần
Trong cuộc Nam tiến, nhiều dòng người từ các nơi đã đến vùng đất mới này sinh cơ lập nghiệp. Trên bước đường chinh phục hoang vu, từ những chiếc ghe bầu, ghe chài, tam bản, xuồng ba lá…, hành trang mang theo của những cư dân mới có cả những câu hò, điệu lý…Nó làm chỗ dựa tinh thần trên bước đường xa xứ.
Trên bước đường bôn ba, lênh đênh sông nước, những hành trang tinh thần này được các tiền nhân sáng tác, phổ biến, cách tân cho phù hợp với hoàn cảnh của mình. Thậm chí vùng đất Bạc Liêu thực tế đã lưu hành nhiều loại hò của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ như hò sông Hậu, hò Bến Tre, hò Trà Vinh, hò Vĩnh Long. Nhưng mỗi loại hò khi được sử dụng đều có pha trộn, giao thoa tiết tấu hay giai điệu. Mục đích để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế.
Phân loại hò chèo Ghe Bạc Liêu
Hò đơn lẻ là loại hò suông. Trong thời kỳ đầu khẩn hoang đến đầu thế kỷ XX giọng hò chèo ghe Bạc Liêu thường xuất hiện trên các ghe, xuồng xuôi ngược trên các dòng sông như Gành Hào, Cái Tàu, Bảy Háp, sông Trẹm u Minh… Nó cũng thịnh hành ở các bến sông có nhiều con đò ngang, đò dọc. Giai đoạn này hò chèo ghe Bạc Liêu chủ yếu là hò đơn. Hò đơn có 2 giọng là hò chậm và hò nhanh. Câu hò của lối hò chậm thường chỉ là một câu ca dao lục bát hoặc lục bát biến thể ngắn. Nội dung hò đơn lẻ hầu hết mang tính tự sự, gửi gắm tâm trạng xa xôi với thiên nhiên.
Giọng hò mênh mang, chậm rãi trải dài trên sông nước. Sau đó nó lan toả, tan biến trong không gian vô tận…Nội dung giọng hò nhanh tuy vẫn mang tính tự sự nhưng có chủ ý. Mỗi điệu hò có đối tượng cụ thể để gửi gắm tâm trạng. Thời gian hò nhiều hơn, một phần nhắn nhủ cho con người, một phần gửi vào thiên nhiên sông nước vô tận để san sẻ nỗi lòng.
Câu hò gồm một hoặc nhiều câu song thất lục bát hay lục bát biến thể dài. Mục đích để có đủ dung lượng ngôn ngữ mà bày tỏ nỗi lòng. Lời kể đều có ngân hơi (ờ ờ). Hơi hò đầu cần cao giọng (ơ ớ ơ) và hơi hò sau ngang giọng một chút (ơ ơ ơ). Giai điệu và tiết tấu nhạc cũng như lời kể nhanh hơn phù hợp với điều kiện con nước chảy nhanh, ghe xuồng đi nhanh hơn.
Nguồn: Site.google.com